Mp3: MÙA QUANH NĂM

Lưu trữ tài liệu

Tháng Tư 2024
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
« Tháng 3    
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930  

Thống kê

Số lượt người đã ghé thăm web site này tính từ 6/2009:

Hanoi

VÀO ĐƯỜNG YÊU

TRẦM THIÊN THU

Đường Tình Yêu Đi Qua Đau Khổ
Cõi Sự Chết Dẫn Tới Phục Sinh

Bất cứ cái gì cũng có triết lý đặc trưng, chắc chắn đau khổ cũng có loại triết lý đặc biệt mà phàm nhân không thể hiểu nổi. Chẳng ai thích đau khổ, nhưng không ai lại không đau khổ, cũng chẳng ai có thể lý giải và tránh được đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ tới tột độ thì chẳng ai thoát đau khổ ở cõi đời này.

Trong ca khúc “Buồn Trong Kỷ Niệm,” cố NS Trúc Phương tâm sự: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn.” Đó là ông nói về tình yêu đôi lứa, và về chính cuộc đời ông. Chắc chắn yêu là khổ, dù đó là loại tình yêu nào. Vui ít, buồn nhiều.

Con người đẹp nhất (đẹp đúng nghĩa chứ không là đẹp ngoại hình) là con người từng bị đánh bại, từng chịu đau khổ, từng phải tranh đấu, từng chịu mất mát, nhưng họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu để thoát thân – tức là họ đã đi xuyên qua đau khổ. Như tâm lý gia Elisabeth Kübler-Ross nói: “Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Những người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, cuộc đời đã làm họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Người đẹp không tự nhiên mà có.”

Đó là những con người đã trải nghiệm đau khổ, họ có lòng cảm kích, sự nhạy bén và thấu hiểu đối với cuộc đời, cuộc sống đã làm cho họ biết cảm thông, dịu dàng và quan tâm yêu thương tha nhân một cách sâu sắc. Như vậy, “người đẹp” không thể tự nhiên mà có. Chính đau khổ lại có sức mạnh kỳ diệu khả dĩ làm cho người ta nên khôn. Cụ Ngô Tất Tố đặt vấn đề: “Ai nên khôn không khốn một lần?” Cụ Phan Bội Châu đưa ra giả thuyết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Hai câu nghi vấn cũng là hai câu xác định, hỏi mà trả lời. Đó là dạng nghi vấn xác định. Triết lý sống luôn thâm sâu.

Thánh Phanxicô Assisi nói: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương.” Như vậy có nghĩa là cái hay và cái tốt đều xuất hiện sau đau khổ. Văn thi sĩ Clive Staples Lewis xác định: “Thiên Chúa thầm thì với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ.” Thật kỳ lạ!

Có lẽ chẳng ai định nghĩa thỏa đáng về sự đau khổ, bởi vì đau khổ đa dạng và nhiều mức độ. Sự đau khổ rất mầu nhiệm. Có thể đơn giản hóa để dễ hiểu theo phương trình: Đau Khổ = Ưu Sầu + Nước Mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Rất dễ dàng lau khô “giọt mặn” rỉ ra từ khóe mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” nơi trái tim. Sướng hay khổ còn do khái niệm riêng của mỗi người. Có loại triết lý dễ hiểu, có loại triết lý khó hiểu, thậm chí không thể hiểu: Triết lý Thập Giá – triết lý về sự đau khổ.

Chúa Giêsu thường xuyên nhắc nhở người ta phải vác thập giá hằng ngày, hẳn là có lý do chính đáng. Đau khổ luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Trong cuộc sống, chẳng ai muốn khổ, nhưng chẳng ai thoát. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.” Những người chịu đau khổ hẳn là những người mạnh mẽ, vì Chúa biết họ đủ sức nên mới để cho họ chịu đau khổ như vậy. Elbert Hubbard lý giải: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Thật kỳ lạ, chính lúc chịu đau khổ lại là lúc sống viên mãn.

Kinh Thánh cho biết rằng mặc dù đối mặt với các hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và chân thành cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Đặc biệt là dù đau khổ cùng cực, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của ông Gióp trên cả tuyệt vời. Hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản. Triết lý đau khổ thật kỳ diệu, đúng là sự mầu nhiệm.

Người ta nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Có lẽ đó là cách “tự an ủi” của người đời. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Con Người Giêsu. Cuộc đời Ngài đầy đau khổ nhưng Ngài vẫn có khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô, đó là lúc Ngài vào Thành Giêrusalem.

Giáo hội sử dụng bài ca thứ ba trong các “Bài Ca của Người Tôi Trung” cho Lễ Lá, ngắn gọn mà súc tích: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:4-5) Điều đó không dễ nhưng vấn đề quan trọng là vẫn trung tín trong lúc đau khổ nhất.

Đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại gia tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:6-7) Những người không có niềm tin Kitô giáo không thể hiểu điều đó. Thánh Vịnh gia than thở: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Khoảng cô đơn quá rộng, nỗi nhục nhã quá ê chề, sự thử thách quá lớn!

Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Điều đó như một quy luật bất biến, như định mệnh vậy. Đau khổ cứ tiếp tục chồng chất: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:17-20) Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì, dù vẫn không ngừng cầu nguyện!

Nhưng dù có thế nào thì vẫn một lòng tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Muốn hiểu được triết lý này, đòi hỏi phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú,” ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, ngu xuẩn hoặc điên rồ.

Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2:6-7) Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Đúng là mầu nhiệm, thế nên khó hiểu. Nhưng chỉ “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu.” Người đời cũng biết rằng tình yêu nào cũng cần có “chất” đau khổ để chứng tỏ chân tình. Thật vậy, văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Lạ thật!

Chắc chắn đau khổ có giá trị nhất định và rất độc đáo. Gian nan là nhịp cầu dẫn tới thành công, đau khổ là nhịp cầu dẫn tới vinh quang. Cũng vậy, sự chết là con đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ bước vào cõi trường sinh: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Thánh Phanxicô Assisi) Còn Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11)

Một bản đồ lòng vòng như mê cung mà lại thú vị và hấp dẫn: Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem là lúc Ngài đi vào cõi đau khổ, từ “biên giới” đầy gian khổ ở Vườn Dầu lại tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết nơi đỉnh đồi Canvê, nhưng từ Canvê “chết chóc” ấy lại dẫn tới cõi sống vĩnh hằng nơi Thiên Quốc. Đã có nhiều người khao khát loại bản đồ này, và đã có nhiều người đạt được mục đích: Các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo.

Chuyện gì đến sẽ đến – dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, dù to hay nhỏ. Đời là thế. Đó là điều tất yếu của cuộc sống. Bài thương khó hôm nay là một bộ phim buồn khiến lòng người trĩu nặng… Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đành lòng bán Thầy Giêsu để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt phải – trái. Rất khó cưỡng lại ma lực đó!

Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết. Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ tá hỏa tam tinh và rầu thúi ruột, họ hỏi nhỏ nhau xem ai là thủ phạm. Chẳng ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24) Giuđa nhột gáy, nhưng nói: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?” Ngài đã xác nhận.

Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” (Mt 26:26) Sau đó Ngài cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đó là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng có nỗi buồn: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29)

Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

Khi vào Vườn Dầu, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha. Rồi Ngài trở lại chỗ ba đệ tử thì thấy họ ngủ, Ngài nói với Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:40-41) Phàm nhân thật yếu đuối!

Ngài đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26:42) Khi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu, Ngài cứ để họ ngủ và đi cầu nguyện lần thứ ba, với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giuđa tỏ ra lịch sự đến chào và hôn Thầy, nhưng là để “chỉ điểm” cho những kẻ thủ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy lấy gươm chém đứt tai Mankhô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô cất gươm đi. Họ ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và bỏ của chạy lấy người, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo xống khi chạy trốn. Nói mạnh mà nhát quá!

Họ bắt và điệu Chúa Giêsu đến thượng tế Caipha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao. Họ chất vấn Đức Giêsu đủ điều, nhưng Ngài vẫn im lặng. Vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với đầu gối còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Lúc này Chúa Giêsu mới lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!” (Mt 26:66)

Sau đó, kẻ thì khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ lại tát Ngài, rồi họ nguyền rủa và lăng mạ Ngài đủ thứ. Mỗi chúng ta cũng đã từng “khạc nhổ” hoặc “tát” vào tha nhân – cách này hoặc cách nọ, và đó là sỉ nhục chính Chúa Giêsu! Phêrô được Thầy báo trước nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Khi thiên hạ xì xầm thì ông sợ, không dám nhận mình là người quen với Chúa Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Bất ngờ có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Thầy đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:75) Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Có lẽ từ lúc đó ông rất sợ tiếng gà gáy sáng.

Mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích một người tù theo ý dân. Có một người tù khét tiếng tên là Baraba. Người ta đồng ý thả Baraba và cương quyết giết Chúa Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng ông coi thường công lý. Chính vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này nhưng ông thản nhiên rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Hèn nhát!

Philatô đem Chúa Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Dọc đường, chúng gặp Simôn người Kyrênê, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ không đến nơi hành hình.

Lúc này những người nói mạnh hứa chắc ở đâu? Những người tín cẩn của Ngài ở đâu? Những người được Ngài chữa lành ở đâu? Những người được Ngài cho ăn no nê ở đâu? Sao chỉ có mình ông Simôn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Sự thật phũ phàng quá!

Khi đến Gôngôtha – Đồi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Đóng đinh Ngài vào thập giá xong, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi họ cứ ngồi lì đó mà canh giữ Ngài. Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái. Điều đáng buồn là những kẻ qua người lại đều nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng và hả hê chiến thắng! Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài.

Bỗng dưng bóng tối bao phủ cả mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 3 giờ chiều). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn quá lớn, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Chúa Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54) Sự thật mãi là sự thật.

Có khi tưởng Thắng mà hóa Thua, có khi thấy Thua mà lại Thắng. Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ. Ước gì mỗi tín nhân đều như những chiếc lá luôn xanh biếc màu đức tin, khiêm nhường chào đón Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những lúc buồn. Đau khổ là đặc điểm của tình yêu, bắt đầu yêu là bắt đầu khổ – và khổ cho đến chết. Chuyện gì đến sẽ đến!

Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin cho chúng con hiểu được giá trị của đau khổ, hiểu được triết lý của Thập Giá, để chúng con chịu chết với Chúa Giêsu Kitô mọi ngày ở đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

VÀO ĐƯỜNG YÊU
Đường Tình Yêu Đi Qua Đau Khổ
Cõi Sự Chết Dẫn Tới Phục Sinh

Bất cứ cái gì cũng có triết lý đặc trưng, chắc chắn đau khổ cũng có loại triết lý đặc biệt mà phàm nhân không thể hiểu nổi. Chẳng ai thích đau khổ, nhưng không ai lại không đau khổ, cũng chẳng ai có thể lý giải và tránh được đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã chịu đau khổ tới tột độ thì chẳng ai thoát đau khổ ở cõi đời này.

Trong ca khúc “Buồn Trong Kỷ Niệm,” cố NS Trúc Phương tâm sự: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn.” Đó là ông nói về tình yêu đôi lứa, và về chính cuộc đời ông. Chắc chắn yêu là khổ, dù đó là loại tình yêu nào. Vui ít, buồn nhiều.

Con người đẹp nhất (đẹp đúng nghĩa chứ không là đẹp ngoại hình) là con người từng bị đánh bại, từng chịu đau khổ, từng phải tranh đấu, từng chịu mất mát, nhưng họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu để thoát thân – tức là họ đã đi xuyên qua đau khổ. Như tâm lý gia Elisabeth Kübler-Ross nói: “Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Những người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, cuộc đời đã làm họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Người đẹp không tự nhiên mà có.”

Đó là những con người đã trải nghiệm đau khổ, họ có lòng cảm kích, sự nhạy bén và thấu hiểu đối với cuộc đời, cuộc sống đã làm cho họ biết cảm thông, dịu dàng và quan tâm yêu thương tha nhân một cách sâu sắc. Như vậy, “người đẹp” không thể tự nhiên mà có. Chính đau khổ lại có sức mạnh kỳ diệu khả dĩ làm cho người ta nên khôn. Cụ Ngô Tất Tố đặt vấn đề: “Ai nên khôn không khốn một lần?” Cụ Phan Bội Châu đưa ra giả thuyết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Hai câu nghi vấn cũng là hai câu xác định, hỏi mà trả lời. Đó là dạng nghi vấn xác định. Triết lý sống luôn thâm sâu.

Thánh Phanxicô Assisi nói: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương.” Như vậy có nghĩa là cái hay và cái tốt đều xuất hiện sau đau khổ. Văn thi sĩ Clive Staples Lewis xác định: “Thiên Chúa thầm thì với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ.” Thật kỳ lạ!

Có lẽ chẳng ai định nghĩa thỏa đáng về sự đau khổ, bởi vì đau khổ đa dạng và nhiều mức độ. Sự đau khổ rất mầu nhiệm. Có thể đơn giản hóa để dễ hiểu theo phương trình: Đau Khổ = Ưu Sầu + Nước Mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Rất dễ dàng lau khô “giọt mặn” rỉ ra từ khóe mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” nơi trái tim. Sướng hay khổ còn do khái niệm riêng của mỗi người. Có loại triết lý dễ hiểu, có loại triết lý khó hiểu, thậm chí không thể hiểu: Triết lý Thập Giá – triết lý về sự đau khổ.

Chúa Giêsu thường xuyên nhắc nhở người ta phải vác thập giá hằng ngày, hẳn là có lý do chính đáng. Đau khổ luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Trong cuộc sống, chẳng ai muốn khổ, nhưng chẳng ai thoát. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.” Những người chịu đau khổ hẳn là những người mạnh mẽ, vì Chúa biết họ đủ sức nên mới để cho họ chịu đau khổ như vậy. Elbert Hubbard lý giải: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Thật kỳ lạ, chính lúc chịu đau khổ lại là lúc sống viên mãn.

Kinh Thánh cho biết rằng mặc dù đối mặt với các hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và chân thành cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Đặc biệt là dù đau khổ cùng cực, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của ông Gióp trên cả tuyệt vời. Hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản. Triết lý đau khổ thật kỳ diệu, đúng là sự mầu nhiệm.

Người ta nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Có lẽ đó là cách “tự an ủi” của người đời. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Con Người Giêsu. Cuộc đời Ngài đầy đau khổ nhưng Ngài vẫn có khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô, đó là lúc Ngài vào Thành Giêrusalem.

Giáo hội sử dụng bài ca thứ ba trong các “Bài Ca của Người Tôi Trung” cho Lễ Lá, ngắn gọn mà súc tích: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:4-5) Điều đó không dễ nhưng vấn đề quan trọng là vẫn trung tín trong lúc đau khổ nhất.

Đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại gia tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:6-7) Những người không có niềm tin Kitô giáo không thể hiểu điều đó. Thánh Vịnh gia than thở: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Khoảng cô đơn quá rộng, nỗi nhục nhã quá ê chề, sự thử thách quá lớn!

Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Điều đó như một quy luật bất biến, như định mệnh vậy. Đau khổ cứ tiếp tục chồng chất: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:17-20) Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì, dù vẫn không ngừng cầu nguyện!

Nhưng dù có thế nào thì vẫn một lòng tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Muốn hiểu được triết lý này, đòi hỏi phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú,” ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, ngu xuẩn hoặc điên rồ.

Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2:6-7) Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Đúng là mầu nhiệm, thế nên khó hiểu. Nhưng chỉ “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu.” Người đời cũng biết rằng tình yêu nào cũng cần có “chất” đau khổ để chứng tỏ chân tình. Thật vậy, văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Lạ thật!

Chắc chắn đau khổ có giá trị nhất định và rất độc đáo. Gian nan là nhịp cầu dẫn tới thành công, đau khổ là nhịp cầu dẫn tới vinh quang. Cũng vậy, sự chết là con đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ bước vào cõi trường sinh: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Thánh Phanxicô Assisi) Còn Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11)

Một bản đồ lòng vòng như mê cung mà lại thú vị và hấp dẫn: Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem là lúc Ngài đi vào cõi đau khổ, từ “biên giới” đầy gian khổ ở Vườn Dầu lại tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết nơi đỉnh đồi Canvê, nhưng từ Canvê “chết chóc” ấy lại dẫn tới cõi sống vĩnh hằng nơi Thiên Quốc. Đã có nhiều người khao khát loại bản đồ này, và đã có nhiều người đạt được mục đích: Các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo.

Chuyện gì đến sẽ đến – dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, dù to hay nhỏ. Đời là thế. Đó là điều tất yếu của cuộc sống. Bài thương khó hôm nay là một bộ phim buồn khiến lòng người trĩu nặng… Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đành lòng bán Thầy Giêsu để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt phải – trái. Rất khó cưỡng lại ma lực đó!

Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết. Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ tá hỏa tam tinh và rầu thúi ruột, họ hỏi nhỏ nhau xem ai là thủ phạm. Chẳng ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24) Giuđa nhột gáy, nhưng nói: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?” Ngài đã xác nhận.

Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” (Mt 26:26) Sau đó Ngài cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đó là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng có nỗi buồn: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29)

Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

Khi vào Vườn Dầu, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha. Rồi Ngài trở lại chỗ ba đệ tử thì thấy họ ngủ, Ngài nói với Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:40-41) Phàm nhân thật yếu đuối!

Ngài đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26:42) Khi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu, Ngài cứ để họ ngủ và đi cầu nguyện lần thứ ba, với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giuđa tỏ ra lịch sự đến chào và hôn Thầy, nhưng là để “chỉ điểm” cho những kẻ thủ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy lấy gươm chém đứt tai Mankhô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô cất gươm đi. Họ ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và bỏ của chạy lấy người, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo xống khi chạy trốn. Nói mạnh mà nhát quá!

Họ bắt và điệu Chúa Giêsu đến thượng tế Caipha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao. Họ chất vấn Đức Giêsu đủ điều, nhưng Ngài vẫn im lặng. Vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với đầu gối còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Lúc này Chúa Giêsu mới lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!” (Mt 26:66)

Sau đó, kẻ thì khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ lại tát Ngài, rồi họ nguyền rủa và lăng mạ Ngài đủ thứ. Mỗi chúng ta cũng đã từng “khạc nhổ” hoặc “tát” vào tha nhân – cách này hoặc cách nọ, và đó là sỉ nhục chính Chúa Giêsu! Phêrô được Thầy báo trước nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Khi thiên hạ xì xầm thì ông sợ, không dám nhận mình là người quen với Chúa Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Bất ngờ có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Thầy đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:75) Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Có lẽ từ lúc đó ông rất sợ tiếng gà gáy sáng.

Mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích một người tù theo ý dân. Có một người tù khét tiếng tên là Baraba. Người ta đồng ý thả Baraba và cương quyết giết Chúa Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng ông coi thường công lý. Chính vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này nhưng ông thản nhiên rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Hèn nhát!

Philatô đem Chúa Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Dọc đường, chúng gặp Simôn người Kyrênê, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ không đến nơi hành hình.

Lúc này những người nói mạnh hứa chắc ở đâu? Những người tín cẩn của Ngài ở đâu? Những người được Ngài chữa lành ở đâu? Những người được Ngài cho ăn no nê ở đâu? Sao chỉ có mình ông Simôn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Sự thật phũ phàng quá!

Khi đến Gôngôtha – Đồi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Đóng đinh Ngài vào thập giá xong, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi họ cứ ngồi lì đó mà canh giữ Ngài. Cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái. Điều đáng buồn là những kẻ qua người lại đều nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng và hả hê chiến thắng! Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài.

Bỗng dưng bóng tối bao phủ cả mặt đất từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 3 giờ chiều). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn quá lớn, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Chúa Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54) Sự thật mãi là sự thật.

Có khi tưởng Thắng mà hóa Thua, có khi thấy Thua mà lại Thắng. Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ. Ước gì mỗi tín nhân đều như những chiếc lá luôn xanh biếc màu đức tin, khiêm nhường chào đón Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những lúc buồn. Đau khổ là đặc điểm của tình yêu, bắt đầu yêu là bắt đầu khổ – và khổ cho đến chết. Chuyện gì đến sẽ đến!

Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin cho chúng con hiểu được giá trị của đau khổ, hiểu được triết lý của Thập Giá, để chúng con chịu chết với Chúa Giêsu Kitô mọi ngày ở đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Ghi lời nhận xét góp ý

Lưu ý: Để dễ dàng trong giao tiếp và khỏi hiểu nhầm từ ngữ, các lời nhận xét góp ý trong trang này xin hãy viết bằng tiếng Việt có dấu. Xin kính báo và chân thành cám ơn.

 

 

 

Nội dung có thể dùng một số định dạng these HTML tags

<a href="" title=""> <abbr title=""> <acronym title=""> <b> <blockquote cite=""> <cite> <code> <del datetime=""> <em> <i> <q cite=""> <strike> <strong>

Chọn kiểu gõ tiếng Việt: TELEX VNI VIQR Tắt

*