CÁI CỚ
TRẦM THIÊN THU
Ai Không Chống Lại Là Ủng Hộ
Kẻ Thích Khua Môi Chỉ Tà Tâm
Cái gì cũng có lý do, nguyên nhân, hoặc động lực dẫn tới hành động – có thể xấu hoặc tốt. “cái cớ” Voltaire nhận định: “Đối với những kẻ độc ác, mọi thứ đều là cái cớ. Cơ hội làm điều ác đến một trăm lần trong một ngày, cơ hội làm điều thiện chỉ đến một lần trong một năm.” Benjamin Franklin nói: “Đừng bao giờ làm hỏng lời xin lỗi bằng lý lẽ ngụy biện. Người giỏi ngụy biện hiếm khi giỏi bất cứ điều gì khác.” Số phận là quan niệm sai lầm, vì điều đó bao che sự thật phũ phàng là mình không kiểm soát được đời mình.
Thánh Máccô kể rằng một hôm, ông Gioan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Gioan tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Cái ý tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người ngày nay. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9:39-40)
Có những “chuyện nhỏ” nhưng thực sự quan trọng được Chúa Giêsu đề cập: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mc 9:41) Chén nước chẳng đáng gì nhưng lại cần thiết và được “tính công.” Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác. Và Ngài thẳng thắn nói: “Ai LÀM CỚ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9:42) Cách so sánh rất “nặng nề” nhưng Ngài đó là sự thật, không hù dọa. Trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em hoặc con nít, mà còn là những người chất phác, chân thật, dù người đó đã trưởng thành hoặc cao niên.
Vốn tính cương trực, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn: “Nếu tay anh LÀM CỚ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh LÀM CỚ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh LÀM CỚ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.” (Mc 9:43-48) Những lời đầy “lửa” này có thể thiêu đốt bất cứ ai. Thật đáng sợ!
Cuộc sống có nhiều “cái cớ” để người ta hành động hoặc thoái thác, và cũng là cái để biện minh cho việc mình làm. Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng luẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía.” Tục ngữ nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền.” Thật chí lý!
Người ta khôi hài mà thấm thía về “chuyện nhỏ – to” thế này: “Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO mà hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO mà lỗi NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông TO, những ông TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ mà túi tham TO, túi tham TO vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên hại TO, hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ mà lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ mà tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ, báo cáo NHỎ mà thành tích TO.” Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau điếng, cười khẩy mà nhói lòng. Cỡ nào cũng có “cái cớ” riêng. Chỉ khổ dân đen, kêu trời không thấu!
Người thông minh thì bị triệt, kẻ ngu dốt thì bị đì. Kiểu nào cũng “chết” với người đời. Nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn,” chỉ có sự thật mới có thể giải thoát chúng ta. (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu nói vậy.
Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Môsê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa.” Thần Khí đó là Thánh Linh, Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động ngay từ trong ý nghĩ của mỗi con người.
Lúc đó có Enđát và Mêđát ở lại trong trại. Hai người đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng họ không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên họ và họ bắt đầu phát ngôn trong trại. Một thanh niên chạy đi báo tin cho ông Môsê: “Ông Enđát và ông Mêđát đang phát ngôn trong trại.” Ông Giôsuê, con ông Nun, từng theo hầu ông Môsê từ hồi nhỏ, lên tiếng nói với ông Môsê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ.” Nhưng ông Môsê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ.”
Ông Môsê mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Ai cũng muốn được lãnh nhận Thần Khí. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều có ba thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả. Đây là lĩnh vực thần học, như CĐ Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10) Đại ý: Chức tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người, chức tiên tri (ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời, chức vương giả (vương đế) là để phục vụ dân Chúa.
Thánh Phêrô nhắn nhủ mỗi Kitô hữu – từ giáo hoàng tới giáo dân: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Chúa Giêsu Kitô.” (1 Pr 2:5) Đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà chỉ thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (Phanxicô Assisi, Martin de Porres, Faustina, Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thường, không có gì gọi là “lạ.” Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với các thánh Gioan XXIII, Phaolô VI, GH Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêsa Calcutta, bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,… những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ,” có chăng là cách sống “lạ” – tức là hết lòng mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ,” nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Lời cảnh báo “cẩn tắc vô ưu” của tiền nhân vẫn luôn có giá trị.
Cuộc sống của Thánh Vịnh gia cũng bình thường như chúng ta, nhưng có “cái lạ” là giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8) Nhận thức được vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh.” (Tv 19:10)
Thánh Vịnh gia thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn, không còn vương trọng tội.” (Tv 19:12-14) Lời cầu thành tâm như vậy chắc chắn đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Ngài đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15:15) Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ ảo tưởng mà tự cho mình là “ông kia, bà nọ,” hoặc đòi hỏi phải như ý mình muốn.
Để nhắc nhở và cảnh báo, Thánh Giacôbê nói: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này.” (Gc 5:1-3) Giàu sang, lắm của, nhiều tiền, đó không là tội, nhưng nó có ma lực khó cưỡng lại, và Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10)
Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người mê tiền hơn người đời. Chắc là nhiều người còn nhớ GM Tebartz-van Elst, ông “nổi tiếng” xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem chuyện tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015, ông đã quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non cũng vì lem nhem tiền bạc.
Các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” – không chỉ phong bì dày cộm mà là vàng thật. Người ta bảo “tiền là tiên, là sức bật” không sai chút nào. Thật đáng quan ngại! Một dấu hỏi LỚN hay Nhỏ? Tiền nhân nói chí lý: “Tin ĐẠO chứ KHÔNG tin NGƯỜI CÓ ĐẠO.” Thánh Giacôbê nói: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người.” (Gc 5:4-6)
Thật thâm thúy khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân.” Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu. Hãy luôn nhớ lời Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc.” (1 Tm 6:10) Và đừng quên lời Thánh Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8)
Cuộc sống có nhiều “cái cớ” lắm. Với người giàu, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên để Thánh Timôthê truyền đạt lại: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật.” (1 Tm 17:19) Khác nhau là giàu cái gì – vật chất hay phúc đức, của đời này hay của đời sau.
Lạy Thiên Chúa công minh chính trực, xin giúp chúng con đủ sức dứt khoát với thế tục để hoàn thiện ngày càng hơn, xin loại bỏ ảo tưởng trong chúng con, xin định hướng chúng con theo ý Ngài, quyết tâm ủng hộ cái đúng và chống lại cái xấu. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Nhận xét góp ý